Tên di sản : Nhà thờ họ Đặng

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : Số 2382/QĐ-UBND

Giới thiệu

Nhà thờ họ Đặng nằm trong một không gian kiến trúc cao ráo, thoáng đãng ngoảnh mặt về hướng Đông Nam, với hệ thống các xóm thôn được cấu tạo như ô bàn cờ. Ở đấy có những ngôi nhà cao tầng, một tầng, nhà ở dân gian truyền thống xen kẽ san sát nhau, chúng tựa như một khu phố cổ mà ta thường thấy trong các đô thị cổ thế kỷ XVII - XVIII ở nước ta. Đó cũng là một không gian rộng mà hẹp bởi trên một diện tích 0,47ha (toàn xã) có tới 78 di tích nhà thờ họ, được bố trí rất gần nhau do địa thế từ xa xưa của làng.

Tham quan di tích theo thứ tự từ ngoài vào có các công trình sau:

Sân nhà thờ: Là phần đất nằm trước, liền kề với nhà thờ có diện tích 36,5m2 (dài 8,7m x rộng 4,2m), được lát gạch bát màu đỏ, có ba phía hàng tường thấp bao bọc, trên sân có đặt một số chậu hoa, cây cảnh đã tạo nên một khung cảnh hài hoà trước cửa nhà thờ.

Bình phong: Nằm sát với hàng rào trước sân được xây dựng gần giống một hình vuông có chiều cao 2,6m, chiều rộng 2,65m. Hai bên cuốn thư là hai cột nanh. Đỉnh cột nanh đắp hình hoa dành, bề mặt cột nanh được đắp một đôi câu đối. Ở giữa bức bình phong được đắp nổi hình chữ thọ nằm trong hệ thống dây leo. Xung quanh là hình chim phượng được mô tả với bộ lông rực rỡ, đầu trĩ, mào gà trống, mỏ chim nhạn, toàn thân được phủ một bộ lông màu vàng óng ánh như rực lửa. Đỉnh bức bình phong được đắp hình mặt nguyệt trong Vân mây.

Nhà thờ chính: Được cấu trúc gồm có tiền đường và hậu cung. Nhà tiền đường có 3 gian, 4 vì kèo được cấu trúc theo kiểu "vì kèo trụ trốn" gồm 2 mái: mái trước và mái sau. Vật liệu xây dựng bao gồm gỗ, luồng, vôi, vữa, v.v...nền được lát gạch chỉ màu đỏ, đốc tường xây bằng gạch, mái lợp ngói mūi.

Phía ngoài: Mặt trước nhà thờ là hai cột nanh nằm ở sát hai tường vỉ.

Cột đắp vuông hình chữ nhật. Đỉnh cột là hoa dành nở. Bức chắn mái chạy suốt 3 gian. Phía trên là hình lưỡng long chầu nguyệt. Phía dưới được chia thành 3 ô xuân hoa. Ô giữa đắp hình cuốn thư, ở giữa đắp 4 chữ Hán nổi: Nhà thờ họ Đặng. Hai ô bên là hình chim phượng bay ngậm bầu rượu và túi thơ với bộ lông xanh mượt như lụa, óng ánh như rực lửa. Ở trên mái là hệ thống các đường gờ chỉ chạy theo 4 mái. Trên nóc là bờ nóc được đắp hai đấu trụ hình vuông ở hai đầu với con kìm nóc. Giữa nóc mái đắp hình chữ thọ trong hoa lá.

Kết cấu kiến trúc: Trong bộ khung gỗ 4 vì trong đó có hai cặp vì kèo giống nhau về kiểu liên kết: Đó là hai vì kèo giữa và hai vì kèo hồi.

Hai vì kèo giữa được kết cấu theo kiểu "vì kèo trụ trốn, kẻ chuyền". Quan sát vì kèo: Từ trên đỉnh là một xà nóc (còn gọi là thượng lương) được tỳ lực trên đấu hình thuyền nằm dọc đỡ chỗ giáp nối của hai đầu thượng lương ở gian giữa và đầu cụt ở tường vĩ. Đấu hình thuyền này lại tỳ lực trên một đấu tròn được chạm hình hoa lá. Đấu tròn này lại được nằm trên một con rường bụng lợn nối hai đấu trụ ở đầu chạy ra làm nơi tỳ lực đỡ hoành tải của mái trước và mái sau. Để đỡ tiếp các hoành tải là các con rường ăn mộng vào trụ trốn. Ở mái trước, trụ trốn làm nhiệm vụ để câu đầu chui đầu vào, ở phía dưới câu đầu là một kẻ bẩy chạy ra làm nhiệm vụ tạo ra hiên mái trước. Ở mái sau cột cái còn có thêm chức năng là thay thế một trụ trốn. Từ đỉnh cột cái là một kẻ chuyền chạy xuống ăn mộng vào đầu quá giang. Dưới quá giang lại là một kẻ chuyền nữa ăn mộng vào đầu cột quân, đuôi kẻ vươn ra nằm trên tường đốc để tạo nên mái hiên sau. Các kẻ này được đục hổng để làm chỗ đứng chân cho các hoành mái (đòn tay). Chúng cũng được tạo tác cong lên phía trên đã tạo nên sự khoẻ khoắn đỡ toàn bộ mái nhà. Cấu trúc cuối cùng là các bẩy cổ ngỗng ăn mộng từ cột quân nằm dưới câu đầu và xà dọc. Các bẩy cổ ngỗng này không có khả năng chịu lực cao, vì vậy mà phía ngoài giọt gianh ở mái sau người ta đã bố trí một hàng cột nữa để đỡ các đuôi bẩy cổ ngỗng. Có lẽ sau này với sự phát triển chung của nguyên vật liệu: Gạch, vôi vữa nên nhà thờ đã bỏ bớt các hàng chân cột bằng cách dùng tường hậu thay thế cho hàng cột quân phía sau.

Trên đây là kết cấu chung của hai vì kèo giữa, còn hai vì kèo hồi tiếp giáp với hai gian chái chúng cơ bản giống nhau, chỉ có khác vì kèo này do nằm sát gian chái nên không ảnh hưởng đến diện tích sử dụng của nhà thờ, đồng thời cũng để làm tăng sự vững chắc của ngôi nhà nên việc đỡ vì kèo (câu đầu) và xà lòng (thay cho quá giang) là hai cột cái vươn thẳng từ câu đầu xuống nền nhà, còn ở vì kèo giữa ở mái sau thì lại được thay thế bằng một trụ trốn trên quá giang. Sự khác nhau ở đây còn được thể hiện là toàn bộ vì kèo từ cột quân ở mái trước và bức tường đốc ở mái sau là hệ thống các con rường chồng lên nhau làm nhiệm vụ đỡ các hoành tải. Những con rường này còn được người thợ tạo thành những đường gờ chỉ soi toàn bộ bề mặt để tạo nên sự mềm mại của các con rường. Khoảng cách giữa câu đầu và xà lòng không để trống mà được trang trí bởi các hệ thống các con song tiện, tạo nên sự mềm mại của toàn bộ vì kèo.

Một điểm khác nữa: Ở các vì kèo giữa là các kẻ chuyền thì ở vì kèo hồi kẻ chuyền được thay thế bằng những bức cốn. Các cốn này được ăn mộng vào đầu trụ trốn trên xà đùi và cột lớn tạo thành các khung hình hộp từ sát cột cái cho đến cột trốn, khoảng trống giữa các con rường theo thứ tự từ thấp lên cao vừa làm nhiệm vụ lấp các ô trống, vừa làm nhiệm vụ đỡ các con rường, vừa là nơi để trang trí những bức chạm khắc trên các ô trống của cốn.

Về nghệ thuật trang trí: Nhà thờ đã có lịch sử hơn 100 năm và nó đã được tu sửa nhiều lần. Nhưng về cơ bản kết cấu kiến trúc gỗ của nhà thờ chưa có sự thay đổi về diện mạo. Đây là một nhà thờ có kiến trúc độc đáo, tuy nhiên, phần trang trí trên các bức cốn, kẻ bẩy, con rường, cũng như những bức xuân hoa ở phía trước (ngăn cách giữa nhà trong và mái hiên sau) chủ yếu được bào nhẵn soi những đường gờ chỉ để tạo nên sự mềm mại, uyển chuyển và vui mắt. Còn trong toàn bộ kiến trúc của ngôi nhà chỉ chạm hình hoa lá ở các đầu kẻ bẩy và một vài phiến đoạn khác như các bức cốn, khung gỗ trang trí ở vì kèo, v.v.

Tóm lại: Qua kiến trúc của nhà thờ như đã mô tả ở trên, rõ ràng nhà thờ họ Đặng có niên đại thế kỷ XIX. Kiến trúc hiện thời cho biết điều đó.

Các hiện vật cổ trong di tích:

Một bản gia phả chữ Hán, soạn dưới thời vua Thiệu Trị thứ 4 (1844).

9 bức chỉ dụ của Vua Thiệu Trị và Vua Tự Đức phong cho Đặng Kim Giám. Đồ đồng: 4 bát hương cổ; 5 lư lương (1 vuông, 4 tròn); 6 đài nước; 5 chén thờ; 3 nậm rượu; 1 mâm bồng; 6 con hạc; 12 cây đèn; 2 chuông; 2 thanh đao.

Đồ gỗ: 4 con hạc; 3 khay mịch; 3 mâm bồng; 3 hộp đựng sắc phong; 13 đài nước; 4 ống đựng hương; 2 cây đèn; 2 khám thờ lớn; 3 long ngai; 1 mâm (bày cỗ) + 2 súng thờ; 8 kiếm thờ; 2 nậm rượu; 1 bộ bát biểu; 3 bức đại tự; 4 đôi câu đối; 3 hương án.

Đồ gốm sứ: 2 bát hương sứ; 1 nậm rượu; 2 bát đựng bột hương; 2 bát hương gốm da lươn

Đồ đá: 2 bát hương

Ngoài ra, di tích còn có một số đồ thờ mới như độc bình, chén, bát và bức trướng thờ bằng vải nỉ loại mới, v.v... 

Hình ảnh Nhà thờ họ Đặng

Nhà thờ họ Đặng

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật